KHỞI SỰ KINH DOANH NĂM 2010
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

KHỞI SỰ KINH DOANH NĂM 2010

DIỄN ĐÀN KHỞI SỰ KINH DOANH NĂM 2010 CHUYÊN NGÀNH QUẢN TRỊ KINH DOANH
 
Trang ChínhPortalLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập

 

 TIÊU CHUẨN SÀNG LỌC:YẾU TỐ HIỆU QUẢ KINH TÊ

Go down 
Tác giảThông điệp
ngththuyduyen_cherry




Tổng số bài gửi : 103
Join date : 17/08/2010
Age : 34
Đến từ : Daklak

TIÊU CHUẨN SÀNG LỌC:YẾU TỐ HIỆU QUẢ KINH TÊ Empty
Bài gửiTiêu đề: TIÊU CHUẨN SÀNG LỌC:YẾU TỐ HIỆU QUẢ KINH TÊ   TIÊU CHUẨN SÀNG LỌC:YẾU TỐ HIỆU QUẢ KINH TÊ I_icon_minitimeTue Aug 24, 2010 8:36 pm

Đứng trên giác độ tạo ra giá trị có nghĩa trong các quyết định cần phải hướng đến việc gia tăng khả năng tạo ra lợi nhuận. Điều này đồng nghĩa với việc tối đa hóa lợi nhuận. Tối đa hoá lợi nhuận là mục tiêu chính của công ty. Thực hiên mục tiêu này nhằm không ngừng gia tăng giá trị tài sản cho chủ sở hữu doanh nghiệp. Mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận được cụ thể và lượng hoá bằng các chỉ tiêu sau: Tối đa hoá chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế.
1. Lợi nhuận sau thuế: là phần còn lại sau khi trả tiền lãi vay và thuế thu nhập doanh nghiệp. Lợi nhuận sau thuế là một thước đo lợi nhuận cơ bản của một doanh nghiệp, nhưng đây lại là một thước đo kế toán bao gồm các nguồn tài trợ cũng như các chi phí ngoài tiền như khấu hao. Lợi nhuận sau thuế không tính đến những thay đổi về vốn lưu động của doanh nghiệp cũng như mua sắm tài sản cố định mới, cả hai hoạt động này có thể làm giảm mạnh lượng tiền mặt của doanh nghiệp.
Ví dụ: DRC: Lợi nhuận sau thuế cả năm ước đạt 390 tỷ đồng
Mức lợi nhuận này của DRC bằng 750% so với kế hoạch và tương ứng với EPS đạt hơn 25.000 đồng.DRC: 9 tháng đạt 297,3 tỷ đồng LNST, cao hơn ước tính 17,3 tỷ
Những cơ hội hấp dẫn có tiềm năng lợi nhuận bền vững ít nhất là từ 10 đến 15 phần trăm và thường là 20 phần trăm hoặc hơn. Còn những công ty có lợi nhuận sau thuế dưới 5 phần trăm thì dể sụp đổ.
2.Thời gian hoàn vốn và thời gian để có dòng ngân quỹ dương:Nhà quản lý phải quan tâm đến thời gian hoàn vốn: sẽ mất bao lâu để một cuộc đầu tư cụ thể thu hồi lại số vốn đã bỏ ra. Chúng ta biết rằng cái máy ép nhựa được dự kiến tiết kiệm cho Công ty Amalgamated 18.000 USD mỗi năm. Để xác định thời gian hoàn vốn, hãy lấy tổng số tiền đầu tư chia cho khoản tiền tiết kiệm dự kiến hàng năm. Trong trường hợp này, ta lấy 100.000 USD chia cho 18.000 USD bằng 5,56. Như vậy, cái máy ép nhựa sẽ mất 5,56 năm để hoàn vốn. Chú ý rằng Công ty Amalgamated sẽ chưa thu được lợi ích của vụ đầu tư này trong hơn 5 năm. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu ước tính về vòng đời sản phẩm bị sai, và cái máy ép nhựa này chỉ dùng được bốn năm là hỏng? Cuộc đầu tư giờ đây có vẻ chẳng còn gì hấp dẫn, và chắc chắn là ít hấp dẫn hơn một vụ đầu tư có ROI tương tự nhưng thời gian hoàn vốn chỉ là 3 năm.Là một công cụ phân tích, thời gian hoàn vốn chỉ cho bạn biết một điều: mất bao lâu để thu hồi lại số vốn đầu tư của bạn. Mặc dù công cụ này không hữu ích khi so sánh các phương án thực tế, nhưng một số nhà điều hành vẫn còn sử dụng nó.Sự hoàn vốn đầu tư có thể nằm dưới hình thức tiết kiệm chi phí, lợi nhuận tăng thêm hay gia tăng giá trị. Để tính doanh thu thuần từ một cuộc đầu tư, hãy lấy tổng số tiền thu về trừ đi tổng chi phí đầu tư. Để tính ROI - tỷ lệ hoàn vốn đầu tư, hãy chia số tiền doanh thu thuần cho tổng chi phí đầu tư. Về cơ bản, ROI là một phương tiện so sánh khoản thu về từ đồng tiền công ty đã bỏ ra với lợi nhuận có được từ những nơi khác. Nói chung, ROI nên cao một cách hợp lý - hơn mức mà công ty kỳ vọng có được khi đầu tư vào thứ khác, chẳng hạn như vào trái phiếu chính phủ.Thời gian hoàn vốn và thời gian để có dòng ngân quỹ dương là những công ty có sức hấp dẫn là 2 năm. Một khi thời gian hoàn vốn và dòng ngân quỹ dương dài hơn 3 năm thì sức hấp dẫn của cơ hội sẽ giãm xuống theo.
3.Tiềm năng tỷ suất sinh lợi trên vốn đầu tư: Mặc dù nhiều công trình lý thuyết đã được thực hiện từ khi MM đưa ra lý thuyết không liên quan của cấu trúc vốn năm 1958, giới khoa học tài chính vẫn chưa có một sự thống nhất về quan hệ giữa khả năng sinh lời và đòn bẩy nợ. Vấn đề này xuất phát từ những đối lập của hai mô hình: lý thuyết trật tự phân hạng và lý thuyết cân bằng.
Lý thuyết trật tự phân hạng cho rằng các doanh nghiệp sẽ sử dụng lợi nhuận để lại như là nguồn vốn tái đầu tư, sau đó mới sử dụng nợ và phát hành vốn chủ khi cần thiết. Khi đó, giữa khả năng sinh lời và đòn bẩy nợ có mối quan hệ nghịch chiều. Tuy nhiên, mô hình thuế MM lại cho rằng các doanh nghiệp có khả năng sinh lời cao nên đi vay nhiều hơn khi các DN đó có nhu cầu lớn hơn để tận dụng rào chắn về thuế thu nhập công ty. Do vậy, khả năng sinh lời có mối quan hệ thuận chiều với cấu trúc nợ.
Mô hình đại diện cũng cho một dự đoán ngược lại. Jensen và Williams (1988) cho rằng nợ là phương thức có tính nguyên tắc để đảm bảo các nhà quản trị thanh toán lợi nhuận hơn là xây dựng dinh cơ cho họ. Đối với các DN có dòng tiền tự do hay khả năng sinh lời cao, nợ nhiều sẽ hạn chế tính tùy tiện của ban quản lý. Ở một khía cạnh khác, Chang (1999) cho rằng hợp đồng tối ưu giữa người bên trong doanh nghiệp và nhà đầu tư bên ngoài có thể giải thích là sự kết hợp của nợ và vốn chủ. Các doanh nghiệp có khả năng sinh lời cao thường sử dụng ít nợ hơn.
Cơ hội cực kỳ hấp dẫn có tiềm năng mang lại tỷ suất sinh lợi trên vốn đầu tư(ROI) hơn 25% một năm. Ví dụ: HSBC Việt Nam là ngân hàng 100% vốn ngoại đầu tiên công bố báo cáo tài chính 2009. Theo đó lợi nhuận trước thuế đạt 1.018 tỷ đồng, tổng thu nhập từ hoạt động kinh doanh không kể chi phí dự phòng rủi ro tín dụng là 2.405 tỷ đồng, tổng tài sản tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2009 là 36.689 tỷ đồng và tỷ suất sinh lợi trên vốn 19%..Biên lợi nhuận cao và bền vững và lợi nhuận sau thuế cao sẽ dẫm đến thu nhập trên cổ phiếu và tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ cao, vì thế tạo ra mức giá cổ phiếu “thu hoạch” thỏa đáng cho công ty. Với mức rủi ro bình thường, tiềm năng ROI thấp hơn 15-20% một năm là không hấp dẫn.
4.Nhu cầu vốn: Nguồn vốn phản ánh nguồn hình thành các loại vốn của doanh nghiệp, sắp xếp theo đặc điểm hình thành. Về mặt kinh tế nó biểu hiện khả năng chủ động về tài chính của doanh nghiệp, về mặt pháp lý phần này thể hiện nghĩa vụ của công ty với các chủ nợ và chủ doanh nghiệp. Khi đi xác định nhu cầu vốn của doanh nghiệp thường là nhu cầu vốn lưu động (dự phóng nhu cầu vốn lưu động). Để dự phóng nhu cầu vốn lưu động phải tìm hiểu tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp năm hiện tại: doanh thu, giá vốn, tiền mặt, hàng tồn kho, phải thu, phải trả năm hiện tại. Từ đó xác định tỷ lệ tăng/giảm doanh thu cũng như giá vốn, tiền mặt, hàng tồn kho (tỷ lệ tăng giảm tùy thuộc vào từng ngành nghề sản xuất kinh doanh, quy mô cũng như mạng lưới bán hàng....) ==> Thời gian dự trữ tiền mặt (1)= tiền mặt/giá vốn*365 ngày, thời gian dự trữ hàng tồn kho (2)= tồn kho/giá vốn*365ngày, thời gian thu hồi các khoản phải thu (3)= phải thu/doanh thu*365ngày, thời gian thanh toán các khoản phải trả (4)= phải trả/giá vốn*365ngày ==> Thời gian thiếu hụt nguồn tài trợ = 1+2+3-4 ==> Nhu cầu vốn lưu động = doanh thu*thời gian thiếu hụt nguồn tài trợ/365ngày.
Kinh doanh luôn xuất hiện nhu cầu về vốn. Biện pháp giải quyết nhu cầu về vốn sẽ có thuận lợi lớn trong hoạt động kinh doanh của mình. Với đòi hỏi về vốn ngày một tăng trong nền kinh tế thị trường, tín dụng thương mại ra đời và được đánh giá là biện pháp hữu hiệu nhất giúp các doanh nghiệp vượt qua các giai đoạn khó khăn về mặt tài chính. Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp. Được biểu hiện dưới các hình thức mua bán chịu hàng hoá. Tín dụng thương mại xuất hiện là do sự tách biệt giữa sản xuất và tiêu dùng. Do đặc tính thời vụ trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm khiến các doanh nghiệp phải mua bán chịu hàng hoá. Mua bán chịu được coi là hình thức tín dụng và nó chứa đầy đủ nội dung cơ bản của khái niệm tín dụng là vì:
+ Người bán chuyển giao cho người mua được sử dụng vốn tạm thời trong một thời hạn nhất định.
+ Đến thời hạn đã được thoả thuận, người mua hoàn lại vốn cho người bán dưới hình thức tiền tệ và cả phần lãi suất.
Với mục tiêu trở thành nhà thầu xây lắp chuyên nghiệp và tăng dần tỷ trọng các khoản thu nhập từ mảng đầu tư bất động sản, nhu cầu huy động vốn của CSC trong thời gian tới là rất lớn".
Dự kiến cuối năm 2010, đầu năm 2011, Công ty sẽ căn cứ trên nhu cầu đầu tư thực tế để xin ý kiến cổ đông phương án huy động vốn, ưu tiên tối ưu hóa các hoạt động hiện tại. Tăng vốn phải đi kèm với hiệu quả, lợi ích cổ đông…, nhằm mục tiêu phát triển bền vững. Trong thời gian vừa qua, CSC đã phát hành tăng vốn thành công từ 25 tỷ đồng lên 50 tỷ đồng thông qua việc trả cổ tức bằng cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu, chào bán cho cán bộ công nhân viên và phát hành riêng lẻ. 4 đối tác trong đợt phát hành riêng lẻ vừa rồi là CTCP Chứng khoán Thăng Long, CTCP Quản lý quỹ Sài Gòn - Hà Nội, CTCP Chứng khoán Đại Dương và CTCP Đầu tư tài chính Công đoàn Dầu khí Việt Nam.Năm 2009, CSC đạt lợi nhuận sau thuế 10,667 tỷ đồng, chia cổ tức 12% vốn điều lệ (6% bằng tiền mặt, 6% bằng cổ phiếu). Năm 2010, Công ty đặt kế hoạch doanh thu 410,197 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế 14,286 tỷ đồng, chia cổ tức 15% vốn điều lệ.
5.Tiềm năng tỷ suất sinh lời nội bộ:
Tỷ suất sinh lợi nội bộ dự án là một mức tỷ suất chiết khấu làm cân bằng giá trị hiện tại các xuất quỹ và nhập quỹ của nó.

X0=Xi/(1+IIR)i

Trong đó:
- X0: Đầu tư quỹ ròng ở thời điểm ban đầu (đầu năm thứ nhất )
- Xi: Ngân quỹ ròng của dự án ở năm i
- n: Số năm hoạt động của dự án (chu kỳ dự án)
Tiêu chuẩn chấp nhận về mặt kinh tế là tỷ suất sinh lợi nội bộ của dự án phải lớn hơn tỷ suất sinh lợi cần thiết Rq cho trước. Khi IRR> Rq thì một phần thu nhập tăng thêm của dự án sẽ góp phần đẩy thu nhập của chủ đầu tư, vì thế dự án cần có IRR>Rq. Mức sinh lợi hằng năm trên 25% được xem là một dấu hiệu khả quan.
6. Những đặc điểm về dòng ngân quỹ tự do:
Dòng ngân quỹ tự do là một cách để hiểu được nhiều khuynh hướng tài chính quan trọng của bất kỳ doanh nghiệp nào:độ lớn trong hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp, các nhu cầu về vốn, tài snar cố định và tài sản lưu động, khả năng trả nợ đối với các khoản vay bên ngoài và hoàn trả vố chủ, và khả năng duy trì sự phát triển của nó.
Ngân quỹ cũng sẽ bị thay đổi bởi giá trị thanh lý của tài sản. Nếu giá trị thanh lý lớn, giá trị khấu hao ở các năm sẽ thấp, có thể làm giảm ngân quỹ. Song giá trị thanh lý sẽ cộng vào thu nhập năm cuối cùng của dự án, hoặc cộng phần giá trị thanh lý sau khi đã trừ thuế thu nhập vào ngân quỹ ròng năm cuối.
Ngân quỹ phải ước lượng trên cơ sở ngân quỹ kỳ vọng sau thuế. Tức là ngân quỹ được xác lập trên cơ sở xem xét các yếu tố có liên quan đến dự án và được cân nhắc trong điều kiện trung bình. Việc chúng ta tính các nhân tố trong điều kiện quá thuận lợi hoặc quá bi quan sẽ dẫn đến những kết quả thu được một dòng ngân quỹ ảo tưởng hoặc quá tồi, và điều này có thể xảy ra sự sai lệch trong nhận thức, đánh giá xét chọn các dự án.
Ngân quỹ của dự án được hình thành trên cơ sở ngân quỹ tăng thêm so với trường hợp không có dự án: cách thức này nhằm xác định chính xác tác động do đầu tư mang lại.
Ngân quỹ ròng của dự án không tính chi phí tiền lãi vay dài hạn. Việc không tính đến chi phí tiền lãi vay và cả lợi nhuận trả cho các chủ đầu tư là vì đánh giá dự án đầu tư người chỉ xem xét khả năng sinh lời của các yếu tố vật chất kỹ thuật do đầu tư mang lại, còn phần tính đến chi phí lãi vay có liên quan đến cấu trúc tài trợ sẽ được xem xét trong phần tính tỷ suất sinh lời cần thiết.
Khấu hao không phải là chi phí bằng tiền, song nó lại là một khoản chi hợp lý nhằm thu hồi giá trị đầu tư ban đầu của TSCĐ. Khấu hao là một chi phí hợp pháp trên phương diện tính thuế thu nhập, vì thế trong việc tính thuế thu nhập người ta cộng nó vào chi phí để tính thuế thu nhập. Mức khấu hao hàng năm căn cứ vào thời hạn tính khấu hao, giá trị thanh lý và phương pháp tình khấu hao. Song vì nó không phải là khoản chi bằng tiền nên việc tính ngân quỹ ròng lại phải cộng giá trị khấu hao vào lợi nhuận sau thuế.

7.Lợi nhuận gộp biên: là phần chênh lệch giữa doanh thu thuần và chi phí hàng đã bán. Tiềm năng lợi nhuận gộp biên cao và bền vững, doanh nghiệp có thể đạt điểm hòa vốn sớm hơn, thường trong 2 năm đầu. Vì thế, nếu lợi nhuận gộp biên đạt 20% thì cứ mỗi đồng tăng lên về chi phí cố định thì doanh thu cần phải tăng lên 5 đồng để giữ được mức hòa vốn. Tuy nhiên, nếu lợi nhuận gộp biên là 75% thì một đồng tăng lên về chi phí cố định chỉ cần 1,33 đồng tăng lên về doanh thu.

8.Thời gian hoàn vốn, dòng ngân quỹ và mức lỗ lãi:Nhà quản lý phải quan tâm đến thời gian hoàn vốn: sẽ mất bao lâu để một cuộc đầu tư cụ thể thu hồi lại số vốn đã bỏ ra. Chúng ta biết rằng cái máy ép nhựa được dự kiến tiết kiệm cho Công ty Amalgamated 18.000 USD mỗi năm. Để xác định thời gian hoàn vốn, hãy lấy tổng số tiền đầu tư chia cho khoản tiền tiết kiệm dự kiến hàng năm. Thời gian hoàn vốn Chủ sở hưu là thời gian cần thiết để có thể hoàn lại khoản vốn đầu tư do Chủ sở hữu bỏ ra (không tính đến vốn vay). Và Thời gian hoàn vốn của dự án là thời gian cần thiết để khoản thu có thể bù đắp lại toàn bộ vốn bỏ ra để đầu tư (toàn bộ vốn này bao gồm cả Vốn chủ sở hữu và vốn đi vay).


Về Đầu Trang Go down
 
TIÊU CHUẨN SÀNG LỌC:YẾU TỐ HIỆU QUẢ KINH TÊ
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Tieu chuan sang loc: yeu to hieu qua kinh te
» TIÊU CHUẨN SÀNG LỌC: HIỆU QUẢ KINH TẾ
» tiêu chuẩn rà soát: Yếu tố hiệu quả kinh tế
» Tiêu chuẩn sàng lọc
» TIÊU CHUẨN SÀNG LỌC

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
KHỞI SỰ KINH DOANH NĂM 2010 :: KẾ HOẠCH CÔNG VIỆC :: DIỄN ĐÀN NHÓM 11-
Chuyển đến